Khi cầm một quả cam lên, ta cảm nhận được kết cấu và trọng lượng của nó trên tay. Ta hít hà mùi thơm từ vỏ cam. Nếu đói, ta sẽ bóc vỏ quả cam ra rồi ăn ngấu nghiến từng múi cam. Một quả cam tươi có chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, chất xơ, chất khoáng, các loại vitamin có tác dụng tăng cường sức khoẻ. Và mùi vị của nó thì thật tuyệt vời.
Ta có thể mua các thành phần dinh dưỡng riêng biệt của một quả cam. Ta chỉ cần mua vitamin C, vitamin A, flavonoid, vitamin B tổng hợp, chất xơ, Kali và Canxi dưới dạng viên. Nhưng nếu thay thế một quả cam bằng từng ấy viên thực phẩm bổ xung thì quả là tốn kém. Các chất dinh dưỡng bị cô lập đó khi vào cơ thể cũng không có tác dụng nhiều như khi ta ăn quả cam. Ngoài ra, còn đâu là cảm giác thích thú khi cắn một múi cam mọng nước nữa? Một trải nghiệm trọn vẹn (ăn một quả cam) lại bị chia nhỏ thành nhiều phần dường như chẳng liên quan gì tới nhau (uống các viên vitamin).
Hãy hình dung điều này: từ khi ta còn bé, tất cả người lớn sống quanh ta đều nói rằng các viên vitamin này tốt hơn thực phẩm thật, rằng ta cần dùng vitamin thay thế cho các bữa ăn càng nhiều càng tốt. Ngay cả lúc đó chắc chắn ta vẫn muốn ăn những thứ khiến ta có cảm giác ngon miệng hơn là các viên vitamin. Và nếu đến khi ta 5 tuổi, việc thay thế bữa ăn bằng các viên thực phẩm bổ xung là bắt buộc thì điều gì sẽ xảy ra?
Đây là một cách nói hình tượng khi ta nghĩ đến nền giáo dục hiện tại khi trẻ em bị bắt buộc học các môn học không có tính thực tế và hầu như không có ý nghĩa gì với đời sống thật của chúng. Các nhà giáo dục hiện nay chia nhỏ các hiện tượng ra thành hàng ngàn chủ đề khác nhau và cố dạy trẻ em để rồi kiểm tra và đánh giá chúng. Không ai quan tâm đến mong muốn của trẻ, và nhiều trẻ khi có niềm đam mê ngoài các môn học thì gặp rất nhiều khó khăn vì để theo đuổi đam mê đó việc học tập ở trường sẽ bị ảnh hưởng. Các chương trình học ở trường không được thiết kế để trẻ em phát triển toàn diện và chỉ tập trung vào các vấn đề định sẵn với một liều lượng nhất định và các vấn đề này sẽ được kiểm tra lặp lại nhiều lần. Các giáo viên có tâm nhất với nghề cũng bị mắc kẹt trong hệ thống giáo dục không công nhận khả năng học hỏi tự nhiên của trẻ. Thực tế là, dù miễn cưỡng nhưng hầu hết người lớn chúng ta đều cho rằng muốn học thì phải đến trường, phải đi học, phải có giáo viên, mà không xem xét lại trường học đã gây ra những gì cho con em mình.
Ở những em bé, việc học hỏi luôn luôn diễn ra. Những tiến bộ kì diệu của một em bé từ lúc sơ sinh cho đến lúc 5 tuổi vẫn xảy ra kể cả khi không có ai dạy. Các em khám phá thế giới xung quanh, thử thách chính mình, phạm sai lầm và làm lại từ đầu với một sự háo hức học hỏi vô biên. Trẻ em dường như nhận ra rằng kiến thức, cũng giống như nước hay không khí, là một nguồn tài nguyên chung cho tất cả mọi người. Chúng cũng muốn được học hỏi một cách công bằng. Chúng chủ động trao cho bản thân quyền được học những kiến thức và thực tập những kĩ năng cần thiết cho cuộc sống. Người lớn chúng ta thì cho rằng kiến thức mà trẻ có được là do được người lớn dạy, nhưng bất kì khi nào ta cố gắng dạy dỗ chúng điều gì đó thì trẻ lại tỏ ra bướng bỉnh hoặc không quan tâm đến lời dạy của ta. Trẻ em thường bỏ qua những kiến thức chúng chưa sẵn sàng học, nhưng vào một lúc khác khi đã sẵn sàng chúng sẽ quay trở lại với vấn đề đó và tiếp thu một cách dễ dàng và thích thú. Những điều trẻ làm liên quan trực tiếp tới lí do chúng làm điều đó, bởi vì với trẻ, việc học tập phải có mục đích. Trẻ em luôn tò mò, năng động, và tự thúc đẩy mình tiến tới sự toàn vẹn. Trẻ em luôn khao khát học hỏi. Nhưng hệ thống trường lớp lại can thiệp vào quá trình rất đỗi tự nhiên này của trẻ.
Người lớn chúng ta quá tin tưởng vào những bài học được thiết kế sẵn nên ta bắt ép con trẻ ngoài giờ học phải đi học thêm. Từ trường, trẻ được đưa đến các lớp học thể thao, học văn hoá nghệ thuật… để rồi khi về đến nhà trẻ sẽ chơi với những đồ chơi mang tính “giáo dục”. Thực tế là chúng ta không biết liệu tất cả những nỗ lực, thời gian và tiền bạc bỏ ra như vậy có đem đến cho trẻ những kiến thức có giá trị thật hay không.
Rất nhiều người trong chúng ta cho rằng giáo dục luôn luôn là nhồi nhét kiến thức vào đầu trẻ em, rồi sau đó khi được yêu cầu trẻ em sẽ phải nhả ra những kiến thức đó. Nhưng cách này thực sự không hiệu quả. Chúng ta liên tục cải cách giáo dục mà không nhận ra rằng: “ta không thể giải quyết một vấn đề bằng chính cái ý thức đã tạo ra vấn đề đó” (Einstein)
Chương trình giáo dục định sẵn thực ra là một điều khá mới mẻ trong lịch sử loài người. Thật tệ hại là chính nó lại đang phá hoại cách mà trẻ em được sinh ra để hoàn thiện bản thân và trưởng thành thành những cá nhân có ích. Từ khi xuất hiện trên trái đất cho đến nay, phần lớn thời gian (98% lịch sử loài người) con người là những nhóm săn bắn hái lượm và sống du mục. Mặc dù nền văn hoá và lối sống của chúng ta đã thay đổi khá nhiều nhưng tinh thần và cơ thể chúng ta thì vẫn vây. Giống như tổ tiên từ xa xưa, chúng ta vẫn hoà hợp với nhịp điệu của tự nhiên, vẫn phản ứng nhanh nhạy với các mối nguy hiểm, vẫn muốn sống nương tựa nhau trong một cộng đồng, và trong những năm đầu đời vẫn cần sự chăm sóc mang tính đáp ứng cao và khuyến khích khả năng của mình.
Chúng ta không cần quay lại sống như những nhóm người săn bắn hái lượm để khôi phục lại khả năng học hỏi tự nhiên của trẻ. Đã từ lâu, homeschooler và unschooler đã làm được điều này một cách dễ dàng. Các con tôi học hỏi khi chúng đã sẵn sàng và bằng những cách khiến cá tính của chúng được tăng trưởng. Chúng có thể thức muộn để ngắm sao hoặc chơi nhạc hoặc thiết kế các trò chơi vì biết rằng sáng mai chúng có thể dậy muộn. Chúng có thể dành cả buổi chiều để đọc sách hoặc tham gia vào các hoạt động cộng đồng. Chúng có thời gian tìm hiểu sâu về những vấn đề chúng quan tâm, và những kiến thức đó thường sâu hơn và rộng hơn bất kì quyển sách giáo khoa nào. Chúng khám phá, đặt câu hỏi, làm tình nguyện, chơi với các bạn khác tuổi, tham gia làm việc nhà, mơ mộng, tìm kiếm thử thách, phạm sai lầm và làm lại từ đầu. Chúng quen với việc tự nghĩ một cách độc lập và theo đuổi đam mê của chính mình, bởi vậy chúng tự đề ra cho mình khái niệm thế nào là thành công.
(Tác giả: Laura Grace Weldon – tác giả sách Free Range Learning)