Người lớn đang tước mất cơ hội vui chơi của trẻ em

29 Tháng Mười Một 2018
Chuyên mục
Unschooling
Bình luận  0

Hiện nay trẻ em vừa được chiều chuộng vừa phải chịu áp lực như nhau. Nếu không được tự do vui chơi chúng sẽ không bao giờ trưởng thành.

Peter Gray, 18 tháng 9, 2013

Vào những năm 1950 khi tôi còn là trẻ con, tôi và các bạn của tôi hưởng 2 sự giáo dục. Chúng tôi đi học (hồi đó trường học không phải điều gì to tát như bây giờ), và chúng tôi cũng có được cái mà bây giờ tôi gọi là giáo dục kiểu săn bắt hái lượm. Chúng tôi chơi trong các nhóm cùng khu phố trong đó có trẻ em ở độ tuổi lớn nhỏ khác nhau gần như mỗi ngày sau giờ tan học, thường cho đến khi trời tối. Chúng tôi chơi suốt các ngày cuối tuần và suốt mùa hè. Chúng tôi có thời gian để khám phá theo vô vàn cách khác nhau, và cũng có cả thời gian để cảm thấy nhàm chán và để tìm ra cách vượt qua sự nhàm chán, thời gian để bị rơi vào rắc rối và tìm cách thoát khỏi những rắc rối đó, thời gian để mơ mộng giữa ban ngày, thời gian để đắm chìm trong những sở thích của bản thân, và thời gian để đọc truyện tranh và bất kì cái gì mình muốn đọc thay vì chỉ đọc những cuốn sách được người lớn giao cho đọc. Đến nay khi đã trưởng thành, tôi thấy rằng những điều tôi học được từ sự giáo dục kiểu săn bắt hái lượm có giá trị trong cuộc sống hiện tại hơn nhiều so với những điều tôi học được ở trường lớp, và tôi cho rằng những người khác tầm tuổi tôi cũng sẽ nói như vậy nếu họ chịu bỏ thời gian để nghĩ về điều này.

Đã hơn 50 năm nay, tại Mỹ, chúng ta đã và đang dần dần làm nghèo đi các cơ hội vui chơi của trẻ em, và ở nhiều nước khác cũng vậy. Trog cuốn sách “Children at Play: An American History (2007), Howard Chudacoff nhắc đến nửa đầu thế kỉ 20 như là “thời hoàng kim” của sự vui chơi tự do của trẻ em. Vào khoảng năm 1900, nhu cầu về lao động trẻ em giảm đi, bởi vậy trẻ em có rất nhiều thời gian rảnh. Nhưng sau đó, bắt đầu vào khoảng 1960 hoặc sớm hơn một chút, người lớn bắt đầu cắt giảm sự rảnh rang đó của trẻ bằng cách tăng thời gian học của trẻ tại trường và, thậm chí ngay cả khi trẻ không phải đến trường và không phải làm bài tập về nhà, họ cũng không để trẻ có nhiều thời gian tự chơi. Các môn thể thao dành cho trẻ em do người lớn chỉ đạo bắt đầu thay thế những trò chơi tự do; các lớp học ngoài giờ học do người lớn hướng dẫn bắt đầu thay thế thời gian dành cho sở thích riêng của trẻ; ngoài ra, nỗi sợ hãi của các bậc cha mẹ khiến họ cấm các con mình ra ngoài chơi với những đứa trẻ khác mà không có sự giám sát. Có rất nhiều lí do dẫn đến những thay đổi này nhưng hệ quả của nó, sau nhiều thập kỉ, là sự giảm sút khủng khiếp và liên tục về cơ hội vui chơi và khám phá theo cách riêng của trẻ em.

Cùng trong những thập kỉ khi mà cơ hội vui chơi của trẻ em bị giảm sút, các vấn đề về rối loạn tâm thần ở trẻ tăng cao. Các vấn đề rối loạn mà trước kia từng bị coi nhẹ đang tăng cao nhanh và liên tục. Ví dụ, từ những năm 50, các bản câu hỏi điều tra lâm sàng có mục đích đánh giá mức độ lo âu và trầm cảm với nội dung không thay đổi được đưa cho những nhóm trẻ em điển hình ở tuổi học đường tại Mỹ. Sự phân tích kết quả cho thấy mức độ lo âu và trầm cảm ở trẻ em tăng đều và liên tục trong mấy thập kỉ qua, những trường hợp có vấn đề phổ biến về rối loạn lo âu và trầm cảm nặng hiện nay cao gấp 5 đến 8 lần so với những năm 1950. Cùng trong thời kì này, số ca tự sát ở những người trẻ từ 15 đến 24 tuổi tăng gấp 2 lần, ở những trẻ dưới 15 tuổi tăng gấp 4 lần.

Đồng hành với sự giảm sút cơ hội vui chơi là sự giảm sút về khả năng thấu cảm và sự tăng lên của chủ nghĩa yêu bản thân thái quá, cả hai vấn đề này đều được đánh giá từ cuối những năm 1970 bằng các bản câu hỏi điều tra tiêu chuẩn được đưa cho những nhóm sinh viên đại học điển hình. Thấu cảm là khả năng và xu hướng nhìn vấn đề của những người khác từ góc độ của họ và hiểu được những gì mà người khác đang trải qua. Chủ nghĩa yêu bản thân thái quá là chỉ quan tâm đến bản thân mình mà không quan tâm tới những người khác, không thể kết nối với người khác về mặt cảm xúc. Sự giảm sút về khả năng thấu cảm và sự tăng cao của chủ nghĩa yêu bản thân quá mức ở trẻ em chính xác là những gì chúng ta có thể đoán trước khi trẻ hầu như không có cơ hội chơi cùng nhau. Trẻ em không thể học những kĩ năng giao tiếp và giá trị xã hội này ở trường học, bởi trường học là một môi trường độc đoán chứ không dân chủ. Trường học khuyến khích sự cạnh tranh chứ không phải sự hợp tác; và trẻ em ở đó không được tự do nghỉ học khi những người khác không tôn trọng nhu cầu và mong muốn của chúng.

Trong cuốn sách Free to Learn(2013) của mình, tôi có ghi chép lại những thay đổi này. Trong đó tôi nói rằng phần lớn nguyên nhân của sự tăng cao các vấn đề rối loạn tâm thần ở trẻ em là sự suy giảm tự do của chúng. Nếu chúng ta yêu thương trẻ em và muốn chúng phát triển tốt, chúng ta phải cho trẻ nhiều thời gian và cơ hội vui chơi hơn chứ không phải là ít đi. Tuy nhiên những nhà hoạch định chính sách quyền lực lại đang tiếp tục đẩy chúng ta theo hướng ngược lại: học hành ở trường nhiều hơn, kiểm tra nhiều hơn, người lớn kiểm soát trẻ em nhiều hơn, và ít cơ hội để trẻ em được tự do vui chơi hơn.

Mới đây tôi có tham gia một cuộc tranh luận trên sóng phát thanh với một người đại diện cho tổ chức có tên gọi Trung tâm quốc gia về Thời gian và Học tập (National Center on Time and Learning). Tổ chức này kêu gọi kéo dài thời gian học tại trường mỗi ngày và mỗi năm đối với trẻ em Mỹ. Luận đề của bà ấy – phù hợp với mục đích của tổ chức và với chủ trương của Tổng thống Barack Obama và Bộ trưởng Bộ Giáo Dục Arne Duncan – là trẻ em cần phải đi học ở trường nhiều hơn mức hiện tại để chuẩn bị cho thế giới cạnh tranh hiện nay và mai sau. Tôi đưa ra điều ngược lại. Chủ đề của cuộc tranh luận là: Học sinh cần học nhiều hơn hay chơi nhiều hơn?

“Học” đối đầu với “Chơi”. Sự phân chia như vậy dường như là tự nhiên đối với những người như người tổ chức cuộc tranh luận trên đài, người phụ nữ tranh luận với tôi, ông Tổng thống nước tôi, và Bộ trưởng Bộ Giáo Dục nước tôi, và có thể là cả bạn nữa. Theo như hầu hết mọi người, “học” là điều mà trẻ em làm ở trường và có thể là trong những hoạt động do người lớn chỉ huy. “Chơi” chỉ là hoạt động tạm nghỉ để lấy lại sự sảng khoái để rồi lại học tiếp. Từ cách nhìn nhận đó, kì nghỉ hè chỉ là một thời gian tạm nghỉ học dài, có lẽ là dài hơn mức cần thiết. Nhưng đây là một cách nhìn nhận khác mà lẽ ra nó phải là hiển nhiên nhưng thực tế lại không thế: “chơi” là “học”. Khi chơi, trẻ em học được những bài học quan trọng nhất của cuộc sống, những bài học không thể được dạy ở trường. Để học tốt những bài học này, trẻ em cần được chơi nhiều, nhiều thật là nhiều, mà không bị người lớn can thiệp.

Tôi là một nhà tâm lí học tiến hoá, điều đó có nghĩa là tôi quan tâm tới đặc tính tự nhiên của con người, mối liên hệ của nó với đặc tính tự nhiên của các loại động vật khác, và cách mà đặc tính đó được định hình bởi chọn lọc tự nhiên. Mối quan tâm đặc biệt của tôi là hoạt động vui chơi.

Các con non của tất cả các loài động vật có vú đều chơi. Tại sao vậy? Tại sao chúng lại lãng phí năng lượng và mạo hiểm mạng sống để chơi, khi chúng có thể nghỉ ngơi, chui vào nơi nào đó cho an toàn? Đó là kiểu câu hỏi mà các nhà tâm lí học tiến hoá hỏi. Người đầu tiên nhắc đến câu hỏi đó từ góc độ tiến hoá là triết gia và nhà tự nhiên học người Đức Karl Groos. Trong cuốn sáchThe Play of Animals (1898), Groos đã chỉ ra rằng hoạt động vui chơi là phương tiện thông qua đó các loài động vật thực hành các kĩ năng mà chúng cần để tồn tại và sinh sản.

Ngày nay học thuyết “chơi là thực tập” được chấp nhận bởi nhiều nhà nghiên cứu. Nó giải thích tại sao các con non chơi nhiều hơn các con trưởng thành (chúng có nhiều thứ phải học hơn) và tại sao các loài động vật ít dựa vào các bản năng cứng nhắc để tồn tại và dựa nhiều vào việc học hỏi là những loài chơi nhiều nhất. Ở một mức độ đáng kể, bạn có thể đoán trước được cách mà một loài động vật chơi khi biết những kĩ năng mà nó cần phát triển để tồn tại và sinh sản. Các con hổ con và những con nhỏ thuộc giống săn mồi khác chơi trò rình rập, chụp mồi hoặc đuổi bắt, trong khi đó các con ngựa vằn con hoặc và các loài làm mồi khác chơi trò chạy trốn và lẩn tránh.

Tiếp nối cuốn sách The Play of Animals là cuốn The Play of Man (1901), trong đó Groos mở rộng hiểu biết của mình về hoạt động vui chơi của động vật sang con người. Ông chỉ ra rằng con người – loài có nhiều điều phải học hơn cả so với các loài khác, là loài động vật chơi đùa nhiều nhất. Trẻ em, không giống như con non của các loài khác, phải học nhiều kĩ năng khác nhau tuỳ vào nền văn hoá trong đó chúng đang phát triển. Bởi vậy, sự chọn lọc tự nhiên đã ban cho trẻ em một động lực mạnh mẽ trong hoạt động quan sát các hoạt động của những người lớn hơn và kết hợp những hoạt động đó vào trong trò chơi của mình. Groos gợi ý rằng trẻ em trong mọi nền văn hoá, khi được cho phép chơi tự do, không chỉ chơi các kĩ năng có giá trị đối với tất cả mọi người ở tất cả mọi nơi (như là đi và chạy bằng 2 chân), mà còn chơi các kĩ năng cụ thể trong nền văn hoá mà chúng sống (như là bắn cung tên hoặc chăn gia súc).

Công việc nghiên cứu và các ý tưởng của tôi được xây dựng dựa trên công trình của Groos. Trong đó một nhánh nghiên cứu là xem xét cuộc sống của trẻ em trong các nền văn hoá săn bắt hái lượm. Trước khi nền nông nghiệp phát triển, khoảng 10.000 năm trước, tất cả mọi người đều từng là người săn bắt hái lượm. Vài nhóm người vẫn tồn tại như người săn bắt hái lượm cho đến tận bây giờ, họ được các nhà nhân chủng học nghiên cứu. Tôi đã đọc tất cả các ghi chép mình có thể tìm thấy về tuổi thơ của những người săn bắt hái lượm, và mấy năm trước tôi đã làm một cuộc thống kê nhỏ với 10 nhà nhân chủng học, họ đều là những người đã từng sống trong 7 nền văn hoá săn bắt hái lượm khác nhau trên 3 lục địa khác nhau.

Những người săn bắt hái lượm không có cái gì giống như trường học. Người lớn tin rằng trẻ em học hỏi bằng cách quan sát, khám phá, và vui chơi, và bởi vậy, họ để chúng chơi thoải mái về thời gian. Trả lời cho câu hỏi khảo sát của tôi rằng “Trẻ em trong các nền văn hoá mà ông/bà quan sát có bao nhiêu thời gian để vui chơi?”, tất cả các nhà nhân chủng học đều nhất trí nói rằng trẻ em được tự do vui chơi gần như cả ngày từ lúc tỉnh dậy đến lúc đi ngủ, từ khi chúng khoảng 4 tuổi (khi chúng được cho là đã đủ lớn để có thể ở cách xa người lớn, trong một nhóm có nhiều trẻ ở các độ tuổi khác nhau) đến khi chúng 14-15 hoặc thậm chí 18-19 tuổi (khi chúng bắt đầu tự nhận một vài trách nhiệm của người trưởng thành). Ví dụ Karen Endicott, người đã nghiên cứu người săn bắt hái lượm Batek ở Malaysia nói rằng: “Trẻ em được tự do vui chơi gần như hoàn toàn; không ai kì vọng chúng làm bất cứ việc gì quan trọng cho đến khi chúng khoảng 18-19 tuổi”.

Điều này rất hợp với lí thuyết “chơi là thực tập” của Groos. Con trai thì chơi trò truy tìm dấu vết và săn bắt, và cả con trai và con gái đều chơi trò tìm và đào các loại củ ăn được. Chúng chơi trèo cây, nấu ăn, dựng lều, và giả làm những món đồ quan trọng trong nền văn hoá của chúng, như là thuyền độc mộc. Chúng chơi trò tranh luận và thảo luận, đôi khi bắt chước người lớn hoặc thử xem chúng có thể lí giải mọi thứ tốt hơn cách mà người lớn làm quanh đống lửa tối hôm trước hay không. Chúng vui vẻ nhảy múa những điệu nhảy truyền thống và hát những bài hát truyền thống của mình, nhưng chúng cũng tạo ra những điệu nhảy và những bài hát mới. Chúng làm và chơi các nhạc cụ giống với những cái mà người lớn trong nhóm làm. Kể cả trẻ nhỏ cũng chơi với những thứ nguy hiểm như dao và lửa, và người lớn để cho chúng chơi, bởi vì “Nếu không thì chúng sẽ học cách sử dụng những thứ đó như thế nào?” Trẻ em làm tất cả những việc này, và nhiều việc nữa, không phải vì có bất kì người lớn nào ép buộc hay khuyến khích chúng làm, mà bởi chúng muốn làm. Chúng làm bởi vì những việc đó vui và bởi vì có điều gì đó sâu thẳm trong chúng, kết quả của sự chọn lọc tự nhiên qua hàng triệu năm, thúc đẩy chúng chơi những trò chơi phù hợp trong nền văn hoá của chúng để sau này chúng sẽ trở thành những người trưởng thành hiểu biết và khéo léo.

Trong một nhánh nghiên cứu khác của mình, tôi nghiên cứu cách trẻ em học hỏi ở một ngôi trường cấp tiến, trường Sudbury Valley. Ngôi trường này ở không xa nhà tôi, tại Massachusetts. Nó được gọi là trường, nhưng nó cực kì khác với những gì mà chúng ta thường tưởng tượng về “trường”. Các học sinh – tuổi từ 4 đến 19 – được tự do cả ngày để làm bất kì điều gì chúng muốn, miễn là chúng không phá vỡ quy định của trường. Những quy định thì chẳng liên quan gì đến việc học, chúng chỉ để giữ trật tự và sự hài hoà ở trường.

Với phần lớn mọi người, điều này nghe thật điên rồ. Làm sao mà bọn trẻ có thể học được cái gì chứ? Thế mà, trường học này đã tồn tại 45 năm rồi và nó có rất nhiều học sinh đã tốt nghiệp đang sống rất tốt, không phải vì trường của chúng đã dạy chúng bất kì cái gì, mà bởi vì nó cho phép chúng học bất kì cái gì chúng muốn. Và, giống như lí thuyết của Groos, những điều mà trẻ em trong nền văn hoá của chúng ta muốn học khi chúng được tự do hoá ra lại chính là những kĩ năng được xã hội đánh giá cao và dẫn đến những công việc tốt và cuộc sống viên mãn. Khi chúng chơi, những học sinh này học cách đọc, tính toán, và sử dụng máy vi tính với tinh thần vui vẻ và đam mê như khi những đứa trẻ trong nền văn hoá săn bắt hái lượm học cách săn bắt và hái lượm. Chúng không nghĩ là mình đang học. Chúng chỉ nghĩ mình đang chơi, đang “làm việc nọ việc kia”, nhưng trong tiến trình đó chúng thực sự đang học.

Quan trọng hơn cả những kĩ năng cụ thể là những thái độ sống mà trẻ em học được. Chúng học cách sống có trách nhiệm với bản thân và với cộng đồng, và chúng học được rằng cuộc sống là rất vui, kể cả (có thể đặc biệt là) khi làm những việc khó. Tôi nên nói thêm rằng đây không phải là một trường đắt tiền; nó hoạt động với chi phí chỉ chưa bằng một nửa trên mỗi học sinh so với các trường công lập địa phương và ít hơn rất nhiều so với phần lớn các trường tư.

Trường Sudbury Valley và các bộ tộc săn bắt hái lượm là rất khác nhau về nhiều mặt, những họ có điểm chung là: họ cung cấp cho trẻ em cái mà tôi cho là những điều kiện cần thiết để tối ưu hoá khả năng học hỏi tự nhiên của trẻ. Họ có chung kì vọng (và thực tế) rằng việc giáo dục là trách nhiệm của trẻ em chứ không phải là cái gì đó người lớn làm cho trẻ, và họ để cho trẻ được tự do hoàn toàn để vui chơi, khám phá, và theo đuổi đam mê riêng. Họ đồng thời cung cấp cho trẻ rất nhiều cơ hội để chơi với những công cụ của nền văn hoá mình; để trẻ được tiếp xúc với những người lớn hiểu biết và quan tâm tới trẻ, những người này chỉ hỗ trợ chứ không phán xét trẻ; và để trẻ ở các lứa tuổi khác nhau chơi với nhau (chơi lẫn tuổi có lợi cho việc học hỏi hơn là chơi đồng trang lứa). Cuối cùng, ở cả hai môi trường, trẻ em được đắm mình trong một cộng đồng ổn định, có đạo đức, bởi vậy chúng học được những giá trị chung của cộng đồng và cách sống có ý thức với người khác chứ không chỉ với bản thân mình.

Tôi không kì vọng trong thời gian sớm có thể thuyết phục được đa số rằng chúng ta nên bãi bỏ hệ thống trường lớp như ta vẫn biết và thay thế nó bằng những trung tâm chơi và khám phá tự do. Nhưng tôi cho rằng việc thuyết phục đa số rằng vui chơi ngoài trường học là quan trọng là một điều khả thi. Chúng ta đã và đang lấy đi quá nhiều cơ hội vui chơi của trẻ rồi; chúng ta không thể lấy đi cơ hội đó thêm nữa.

Tổng thống Obama và Bộ trưởng bộ Giáo Dục Arne Duncan, cùng với nhiều người tham gia chiến dịch ủng hộ việc dạy trẻ nhiều hơn tại các trường truyền thống và nhiều bài kiểm tra hơn, muốn trẻ em chuẩn bị tốt hơn cho thế giới hôm nay và ngày mai. Nhưng sự chuẩn bị nào là cần thiết? Chúng ta có cần thêm người giỏi ghi nhớ các câu trả lời để khi được hỏi sẽ tuôn trả lại những câu trả lời hay không? Có cần thêm người sẵn sàng tự động làm những điều họ được bảo phải làm mà không hỏi han gì thêm không? Trường học được thiết kế để dạy mọi người làm những điều như vậy, và với mục đích đó trường học đã làm rất tốt. Hay chúng ta cần nhiều hơn những người biết hỏi những câu hỏi mới và tìm ra những câu trả lời mới, những người biết phân tích, suy luận và sáng tạo, đổi mới và dám làm, và biết tự học hỏi những kiến thức cần thiết? Tôi cá là Obama và Duncan sẽ đồng ý rằng ngày nay tất cả mọi trẻ em đều cần những kĩ năng này hơn là ngày xưa. Nhưng các trường học rất tệ trong việc dạy những kĩ năng này.

Hơn 2 thập kỉ nay, những người lãnh đạo ngành giáo dục tại Mỹ, Anh và Úc đã và đang kêu gọi chúng ta noi theo các trường học Châu Á – đặc biệt là các trường ở Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc. Ở các quốc gia châu Á trên, trẻ em phải học nhiều hơn trẻ em Mỹ, và chúng đạt điểm số cao hơn trong các bài kiểm tra tiêu chuẩn quốc tế. Điều mà Bộ trưởng Giáo dục Mỹ Duncan rõ ràng không nhận ra, hoặc không thừa nhận, là những người lãnh đạo ngành giáo dục ở các nước đó hiện nay càng ngày càng cho rằng hệ thống giáo dục của họ là một sai lầm. Mặc dù các trường học của họ làm rất tốt trong việc đào tạo các học sinh để chúng đạt điểm cao trong các bài thi, nhưng trường học rất tệ trong việc đào tạo các học sinh sáng tạo và thực sự yêu thích sự học hỏi.

Trong một bài báo có tên “Bài kiểm tra mà các trường học Trung Quốc vẫn bị trượt” trong cuốn Thời Báo Wall Street tháng 12 năm 2010, Jian Xueqin, một nhà giáo dục Trung Quốc xuất chúng viết: “Sự thất bại của một nền giáo dục dựa trên sự học vẹt là rất rõ ràng: học sinh thiếu kĩ năng xã hội và thực tế, không có tính tự giác và sáng tạo, mất đi sự tò mò và niềm đam mê học hỏi… Có một cách mà chúng ta sẽ biết được chúng ta có thành công hay không trong việc thay đổi các trường học ở Trung Quốc, đó là khi điểm số [trên các bài kiểm tra tiêu chuẩn] giảm xuống.” Cùng lúc đó, Yong Zhao, một giáo sư ngành sư phạm người Mỹ gốc Trung Quốc, người chuyên so sánh hệ thống giáo dục của Mỹ và Trung Quốc, ghi chép rằng có một từ ở Trung Quốc để chỉ những học sinh đã tốt nghiệp là gaofen dineng, có nghĩa là “điểm cao nhưng khả năng thấp”. Bởi vì học sinh phải dành gần hết thời gian của mình vào việc học, chúng gần như có rất ít cơ hội để sáng tạo, để khởi xướng cái gì đó, hoặc để phát triển những kĩ năng thể chất và xã hội: nói ngắn gọn là chúng có ít cơ hội để vui chơi.

Thật không may, khi chúng ta ngày càng di chuyển theo hướng chương trình học tiêu chuẩn, khi chúng ta ngày càng bắt trẻ em phải dành nhiều thời gian hơn cho việc học ở trường, các kết quả giáo dục đương nhiên sẽ trở nên giống với các nước châu Á hơn. Một minh chứng cho điều này đến từ kết quả của một bộ đo lường tính sáng tạo có tên TTCT (Torrance Tests of Creative Thinking) – được thu thập từ những nhóm trẻ em Mỹ điển hình từ mẫu giáo đến lớp 12 (tuổi 17-18) trong nhiều thập kỉ. Kyung-Hee Kim, một nhà tâm lí học giáo dục tại Đại học William và Mary ở Virginia, đã phân tích điểm của bộ đo lường đó và báo cáo lại rằng mức độ sáng tạo ở trẻ em bắt đầu giảm xuống vào năm 1984 hoặc ngay sau đó, và vẫn liên tục giảm xuống từ đó đến giờ. Trong bài báo “Khủng hoảng Sáng tạo” được xuất bản năm 2011 trên Tạp chí Creativity Research, Kim đưa ra những dữ liệu cho thấy “trẻ em đã và đang gặp trở ngại trong việc biểu lộ cảm xúc, chúng ít hoạt động hơn, nói ít hơn, kém hài hước hơn, kém sáng tạo hơn, kém độc đáo hơn, kém sinh động hơn, kém sôi nổi hơn, thụ động hơn, khả năng kết nối các dữ kiện kém hơn, khả năng tổng hợp kém hơn, và khả năng nhìn nhận sự việc từ một góc độ khác kém hơn.”

Theo nghiên cứu của Kim, tất cả mọi khía cạnh của tính sáng tạo đều giảm sút, nhưng khía cạnh giảm sút lớn nhất là “sáng tạo mở rộng”. Khía cạnh này đánh giá khả năng phát triển một ý tưởng nhất định theo những cách mới và thú vị. Năm 2008, 85% trẻ em có điểm sáng tạo mở rộng thấp hơn điểm của một trẻ em bình thường vào năm 1984. Nếu các “nhà cải cách” giáo dục đạt được mục tiêu của họ, điểm số đó sẽ còn giảm thấp nhiều hơn nữa bởi trẻ em sẽ bị tước thêm nữa cơ hội vui chơi. Một nghiên cứu khác bởi nhà tâm lí học Mark Runco và các đồng nghiệp tại Torrance Creativity Center tại Đại học Georgia cho thấy điểm sáng tạo trên TTCT là dự đoán tốt nhất mà chúng ta có của trẻ cho những thành tựu trong tương lai của chúng. Điểm sáng tạo TTCT giúp chúng ta dự đoán tốt hơn điểm IQ, tốt hơn điểm số ở trường Trung học, và tốt hơn nhận xét của bạn cùng lứa về vấn đề ai sẽ thành tựu được nhiều nhất trong tương lai.

Bạn không thể dạy tính sáng tạo; bạn chỉ có thể để cho nó phát triển. Trẻ nhỏ, trước khi đi học, có tính sáng tạo tự nhiên. Những nhà phát minh vĩ đại nhất, những người mà chúng ta gọi là thiên tài, là những người mà bằng cách nào đó giữ được tính sáng tạo tự nhiên của tuổi thơ, và phát triển nó trong suốt thời kì trưởng thành. Albert Einstein, người mà hiển nhiên là ghét trường học, nhắc đến những thành tựu của mình trong ngành vật lí lí thuyết và toán học là “trò chơi tổ hợp”. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy những người sáng tạo nhất là những người “làm cho vui”. Trong cuốn sách Creativity in Context (1996) và trong nhiều nghiên cứu của nhà tâm lí học – giáo sư Harvard Business School, bà Teresa Amabile đã chỉ ra rằng những cố gắng làm tăng tính sáng tạo bằng cách treo thưởng hoặc bằng cách đặt mọi người vào trong những cuộc thi để xem ai là người sáng tạo nhất có hiệu quả ngược lại. Nếu bạn đang lo lắng về những phán xét của người khác thì thật khó để sáng tạo. Ở trường, các hoạt động của trẻ em liên tục bị phán xét. Trường học là một nơi thích hợp để bạn học cách làm theo lời người khác bảo; nhưng nó là một nơi rất tệ để bạn thực hành sáng tạo.

Khi Chanoff và tôi nghiên cứu các học sinh đã tốt nghiệp trường Sudbury Valley cho bài viết “Trường học dân chủ: điều gì xảy ra với những người trẻ tuổi được tự quyết định vấn đề giáo dục của bản thân?”, chúng tôi đã hỏi về những trò chơi mà họ từng chơi khi còn là học sinh và về sự nghiệp mà họ theo đuổi từ khi tốt nghiệp. Trong nhiều trường hợp, có một mối liên quan trực tiếp giữa 2 điều đó. Những người đã tốt nghiệp vẫn tiếp tục chơi các trò chơi mà họ thích từ hồi là học sinh với cùng niềm vui, niềm đam mê và tính sáng tạo, chỉ khác là bây giờ họ đang kiếm sống với trò chơi đó. Những nghệ sĩ nhạc chuyên nghiệp đã từng chìm đắm trong âm nhạc khi họ còn là học sinh, và những người làm nghề lập trình máy tính đã từng dành phần lớn thời gian chơi với máy tính. Một phụ nữ hiện giờ đang là một thuyền trưởng đã từng dành rất nhiều thời gian khi còn là học sinh để chơi trên mặt nước, đầu tiên là với những con thuyền đồ chơi và sau đó là với thuyền thật. Một người đàn ông khác đang là một nhà phát minh nổi tiếng thì đã từng dành tuổi thơ của mình để chơi trò lắp ghép mọi thứ và tháo rời mọi thứ để xem chúng hoạt động thế nào.

Nếu phải đi học ở một trường học truyền thống, không ai trong số những người này có thể khám phá ra đam mê của mình bởi ở trường học, hoạt động chơi tự do là không được phép. Ở trường học truyền thống, ai cũng phải làm những việc giống nhau, học những điều giống nhau. Kể cả những trẻ có quan tâm đến cái gì đó được dạy ở trường cũng học cách ghìm lại mối quan tâm đó bởi vì, khi chuông hết giờ reo lên, chúng phải chuyển sang học những cái khác. Chương trình học và thời khoá biểu ngăn cản các học sinh theo đuổi bất kì mối quan tâm nào một cách sáng tạo và có ý nghĩa với bản thân chúng. Nhiều năm trước, trẻ em có thời gian rảnh ngoài giờ đi học để theo đuổi mối quan tâm của chúng, nhưng hiện nay chúng quá bận rộn với bài tập ở trường và các hoạt động do người lớn chỉ đạo đến nỗi chúng hầu như không có thời gian và cơ hội để khám phá và đắm chìm trong những hoạt động mà chúng thực sự yêu thích.

Để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc, hoặc những người bạn tốt, hoặc những cộng sự tốt, chúng ta cần biết cách sống hài hoà với người khác: có lẽ đó kĩ năng cần thiết nhất mà tất cả trẻ em cần phải học để có một cuộc sống viên mãn. Trong các bộ tộc săn bắt hái lượm, ở trường Sudbury Valley, và ở nơi nào mà trẻ em được tiếp xúc với những đứa trẻ khác, phần lớn các trò chơi đều là trò chơi xã hội (chơi với nhau). Các trò chơi xã hội là “học viện” để học các kĩ năng giao tiếp xã hội.

Lí do khiến vui chơi là một cách rất có hiệu quả để truyền đạt các kĩ năng xã hội là: nó có tính tự nguyện. Người chơi luôn luôn được tự do quyết định chơi hay bỏ, và nếu họ không vui họ sẽ bỏ chơi. Mỗi người chơi đều biết điều đó, và bởi vậy, mục tiêu, với mỗi người chơi muốn trò chơi tiếp diễn, là thoả mãn nhu cầu và mong muốn của bản thân đồng thời thoả mãn nhu cầu và mong muốn của những người chơi khác để họ không bỏ chơi. Chơi với người khác cần thương lượng và thoả hiệp rất nhiều. Nếu Betty cố đề ra mọi luật chơi và chỉ thị những bạn chơi khác phải làm gì mà không để ý đến mong muốn của họ thì các bạn chơi của Betty sẽ bỏ chơi và để cô bé lại một mình, họ sẽ bắt đầu trò chơi mới của họ ở chỗ khác. Đó là một bài học hiệu quả để lần sau Betty sẽ quan tâm hơn đến các bạn chơi. Các bạn chơi của Betty có thể cũng học được một bài học. Nếu họ muốn chơi với Betty, người mà có vài ưu điểm mà họ thích, họ sẽ phải đề đạt mong muốn của mình rõ ràng hơn vào lần sau, để Betty sẽ không cố chỉ đạo và làm hỏng trò vui. Để có thể chơi vui trong các trò chơi với người khác, bạn phải quả quyết nhưng không được độc đoán; điều đó đúng với mọi mối quan hệ xã hội.

Hãy quan sát bất kì nhóm trẻ nào đang chơi và bạn sẽ thấy chúng đàm phán và thoả hiệp rất nhiều. Các trẻ ở tuổi mầm non chơi trò chơi gia đình dành nhiều thời gian để tìm cách chơi hơn là chơi. Mọi thứ đều phải được đàm phán – ai sẽ là Mẹ, ai sẽ là Con, ai sẽ nói cái gì, và vở kịch sẽ diễn ra như thế nào. Những người chơi có kinh nghiệm sẽ dùng câu hỏi đuôi để biến sự khẳng định của mình thành một lời yêu cầu: “Hãy giả vờ cái vòng cổ này là của mình, OK?” Nếu không OK thì sau đó sẽ là một cuộc bàn luận.

Hoặc hãy quan sát một nhóm trẻ ở độ tuổi khác nhau chơi bóng chày kiểu tuỳ hứng cho vui. Trò chơi như vậy do tự những người chơi điều chỉnh chứ không phải do người nào đó có quyền ở ngoài chỉ đạo (như là huấn luyện viên hoặc trọng tài). Những người chơi phải chọn đội, đàm phán luật chơi cho phù hợp với các điều kiện, quyết định xem như thế nào là chơi đẹp hay không đẹp. Người chơi không chỉ cần hợp tác với những bạn cùng đội, mà còn phải hợp tác với những bạn khác đội, và họ cần phải nhạy cảm với nhu cầu và khả năng của tất cả những bạn chơi khác. Billy to lớn có thể là người ném bóng giỏi nhất, nhưng nếu những người khác cũng muốn được ném thì cậu ấy nên để cho họ cũng được ném bóng để họ không bỏ chơi. Và khi Billy ném bóng cho Timmy bé nhỏ, người mới đang học cách chơi, thì cậu ấy nên ném nhẹ thôi, trúng ngay vào cây gậy của Timmy nếu không thì ngay cả bạn cùng đội với Billy cũng sẽ nói rằng Billy chơi không đẹp. Tuy nhiên khi Billy ném bóng cho tay đập bóng giỏi là Wally thì cậu ấy nên ném hết sức mình, bởi vì nếu không Wally sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Trong một cuộc chơi tuỳ hứng tự do, việc giữ cho cuộc chơi tiếp diễn và vui vẻ cho tất cả mọi người quan trọng hơn nhiều chuyện thắng thua.

Luật lệ vàng của các cuộc chơi giữa nhiều người với nhau không phải là “Đối xử với người khác bằng cách bạn muốn được đối xử” mà là một điều khó khăn nhiều, đó là “Đối xử với người khác bằng cách mà họ muốn được đối xử”. Để làm được điều đó, bạn cần hiểu được suy nghĩ của người khác và nhìn nhận vấn đề từ góc độ của họ. Trẻ em thực hành điều đó trong các cuộc chơi với nhau. Không phải cứ giống nhau là công bằng. Công bằng ở đây có nghĩa là tôn trọng sự khác biệt của các cá nhân và coi nhu cầu và mong muốn của người khác cũng quan trọng như nhu cầu và mong muốn của bản thân. Tôi nghĩ rằng, đó cũng chính là cách hiểu tốt nhất cho câu nói nổi tiếng của Thomas Jefferson rằng “Mọi người sinh ra đều công bằng”. Chúng ta không khoẻ như nhau, không nhanh nhạy như nhau, không khoẻ mạnh như nhau; nhưng chúng ta đều xứng đáng được tôn trọng và được thoả mãn nhu cầu của cá nhân mình như nhau.

Tôi không muốn lí tưởng hoá trẻ em. Không phải đứa trẻ nào cũng học được những bài học này một cách dễ dàng; sự bắt nạt là có tồn tại. Nhưng các hoạt động chơi cùng nhau cho đến giờ vẫn là nơi tốt nhất để học các bài học đó, và tôi nghi là động lực mạnh mẽ ở trẻ nhỏ đối với những trò chơi như vậy, theo tiến hoá, tồn tại để phục vụ mục đích học hỏi đó. Các nhà nhân chủng học báo cáo rằng gần như trong các bộ tộc săn bắt hái lượm không hề tồn tại sự bắt nạt hay độc đoán. Thực tế là, các xã hội như vậy thường được gọi với một cái tên khác: “xã hội công xã”. Các bộ tộc đó không có người đứng đầu, không có cấu trúc quyền lực theo thứ bậc; họ chia sẻ với nhau mọi thứ và hợp tác tối đa để tồn tại; và họ đưa ra các quyết định liên quan đến cả bộ tộc bằng cách thảo luận để đi đến quyết định chung. Lí do họ làm được như vậy, tôi cho rằng, nằm ở việc từ nhỏ họ đã được chơi rất nhiều trò chơi xã hội với nhau và được thực hành các kĩ năng xã hội rất nhiều thông qua các trò chơi đó. Hiện giờ bạn vẫn có thể sống mà không cần tới những kĩ năng đó, nhưng tôi nghĩ là bạn sẽ không được vui cho lắm.

Bởi vậy, hoạt động vui chơi dạy các kĩ năng xã hội mà nếu thiếu chúng cuộc sống này sẽ khổ sở. Ngoài ra nó còn dạy cách xử lí những cảm xúc tiêu cực và mãnh liệt như sợ hãi và giận dữ. Các nhà nghiên cứu hoạt động vui chơi của động vật cho rằng một trong những mục đích chính của hoạt động này là giúp cho con non học cách đối mặt về mặt cảm xúc (cũng như về mặt thể chất) với các tình huống khẩn cấp. Các con non của nhiều loài có vú cố ý nhiều lần đặt chúng vào những tình huống khá nguy hiểm trong khi chơi. Tuỳ vào loài, chúng có thể nhảy lên không trung theo một cách khiến cho việc đáp xuống đất trở nên khó khăn, chạy dọc bờ vực, chuyền từ cành cây này sang cành cây khác đủ cao để nếu ngã sẽ gây đau, hoặc chơi trận giả và mỗi con sẽ thay nhau đóng vai kẻ bị tấn công để sau đó chúng phải tẩu thoát.

Trẻ em, khi được tự do, cũng làm những điều tương tự, khiến cho các bà mẹ lo lắng. Chúng tự đưa mình vào tình huống gây sợ hãi nhất mà chúng có thể chịu được và học cách đối mặt với nỗi sợ hãi của mình. Những trò chơi như vậy phải luôn luôn do người chơi tự chủ động, không bao giờ được thúc ép hoặc thậm chí khuyến khích bởi một người khác. Ép trẻ em phải trải qua những nỗi sợ mà chúng chưa sẵn sàng đối mặt là tàn nhẫn, như khi các giáo viên thể dục yêu cầu tất cả các học sinh trong lớp leo dây lên nóc nhà hay đu dây từ điểm này sang điểm khác. Trong những trường hợp đó, hậu quả có thể là sự hoảng loạn, lúng túng, xấu hổ, những điều đó không làm tăng lên mà còn làm giảm khả năng đối mặt với sợ hãi trong tương lai của trẻ.

Trẻ em cũng trải nghiệm sự giận dữ trong khi chơi. Sự giận dữ có thể nổi lên từ một cái đẩy vô tình hoặc cố ý, hoặc khi bị trêu chọc, hoặc khi thất bại trong một cuộc tranh luận. Nhưng đứa trẻ nào muốn chơi tiếp thì biết rằng chúng phải kiểm soát cơn giận của mình, sử dụng cơn giận đó một cách có ích để tự khẳng định bản thân, và không được gây gổ với bạn chơi. Việc nổi cơn tam bành có thể có hiệu quả với cha mẹ, nhưng không có hiệu quả với các bạn chơi. Có chứng cứ cho thấy con non của các loài động vật khác học cách điều tiết cơn giận và tính hung hăng của chúng thông qua các trò chơi với các con khác.

Ở trường, và ở những nơi khác mà người lớn là người chỉ đạo, họ đưa ra quyết định thay cho trẻ và giải quyết các vấn đề của trẻ thay cho chúng. Khi chơi, trẻ em tự đưa ra quyết định và tự giải quyết các vấn đề của mình. Ở những nơi có người lớn chỉ đạo, trẻ em yếu ớt và dễ tổn thương. Khi chơi, chúng mạnh mẽ và có uy lực. Thế giới của vui chơi là thế giới mà trong đó trẻ em thực hành làm người lớn. Chúng ta coi vui chơi là trò trẻ con, nhưng đối với đứa trẻ, chơi là cách trẻ có những trải nghiệm giống như của người lớn: tự kiểm soát và tự chịu trách nhiệm. Nếu chúng ta không để cho trẻ chơi, thì chúng ta tước đi cơ hội tập làm người trưởng thành của trẻ, và chúng ta tạo ra những người sống mà luôn có cảm giác bị phụ thuộc và là nạn nhân, và cảm giác rằng ngoài kia có ai đó có trách nhiệm nói cho họ biết họ phải làm gì và giải quyết các vấn đề của họ. Đó không phải là một cách sống lành mạnh.

Các nhà nghiên cứu đã phát triển nhiều cách nuôi chuột và khỉ theo cách mà chúng được tiếp xúc với các con khác nhưng không được vui chơi. Kết quả là những con không được chơi thì khi lớn lên và được kiểm tra, chúng bị tê liệt về mặt cảm xúc. Khi bị đặt trong một môi trường mới có mức nguy hiểm trung bình, chúng sợ cứng người lại, không thể vượt qua nỗi sợ hãi để khám phá môi trường mới đó giống như các con chuột và khỉ bình thường. Khi bị đặt vào nơi có những con lạ, chúng sợ hãi và thu mình lại hoặc gây gổ hoặc cả hai.

Trong những thập kỉ vừa qua, xã hội chúng ta đã và đang tổ chức một cuộc thí nghiệm tước đoạt cơ hội vui chơi với con em mình. Trẻ em ngày nay không bị tước đoạt hoàn toàn cơ hội vui chơi như những con chuột và khỉ trong các cuộc thí nghiệm kia, nhưng chúng bị tước đoạt cơ hội vui chơi rất nhiều so với trẻ em của 60 năm trước và rất rất nhiều so với trẻ em trong các xã hội săn bắt hái lượm. Tôi cho rằng hậu quả đã quá rõ ràng. Không được chơi là một điều tồi tệ với trẻ em. Nó làm tăng cảm giác lo âu, dẫn đến tình trạng trầm cảm, tự tử, yêu bản thân thái quá và làm mất đi tính sáng tạo. Đã đến lúc kết thúc cuộc thí nghiệm.

https://aeon.co/essays/children-today-are-suffering-a-severe-deficit-of-play?fbclid=IwAR0blBVMjl1aa_qcG5JdfrOtv-jXnxr8UGob_YNdn-0h5LljBQ3bpvRbhhw

 

 

Trả lời

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *